Người xưa đã có câu:
Văn quan cầm bút an thiên hạ,
Võ tướng đề đao định thái bình.
Võ tướng đề đao định thái bình.
Qua hai câu trên, chứng tỏ rằng người xưa chẳng những học văn mà còn chú trọng đến việc rèn luyện võ thuật
để chống giặc, dẹp loạn, nhằm mang lại thanh bình cho xứ sở. Nhìn chung
vào toàn bộ lịch sử tranh đấu của dân tộc Việt Nam, nền võ học Việt Nam
đã đóng một vai trò rất quan trọng, trong vận mạng thịnh suy của đất
nước. Bởi vì, những vị anh hùng dân tộc, phần lớn đều xuất thân từ giới
võ học, đã tiên phong mang tài thao lược võ dũng và võ trí để góp công
vào cuộc lập quốc và kiến quốc. Do đó, để tìm hiểu lịch sử võ học Việt
Nam, chúng tôi xin được căn cứ trên bối cảnh lịch sử và thứ tự thời
gian, trong bộ “Việt Nam sử lược”, của học giả Trần Trọng Kim làm căn
bản, để phân chia lịch sử võ học Việt Nam ra làm bốn thời kỳ chính yếu
như sau: Thời thượng cổ, thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ độc lập tự chủ , và
thời kỳ cận đại.
I. THỜI THƯỢNG CỔ (2879 – 110 TRƯỚC CN)
Căn cứ vào lịch sử tiến hóa của nhân loại, võ học đã
có một nguồn gốc sâu xa trong quá khứ, từ khi con người còn sống trong
các hang động, chỉ biết ăn sống thịt thú rừng, cây cỏ, và sự sinh hoạt
còn quá phôi thai, rời rạc.Đó là thời tiền sử, theo các nhà khảo cổ học,
thời tiền sử được chia ra làm bốn thời kỳ chính: Thời cựu thạch (thời
đá đẽo), thời trung thạch (thời đá mài), và thời kim khí.
Trong thời cựu thạch (đá đẽo), khởi đầu vì bản năng
sinh tồn, trong cảnh sống chống chọi với thiên nhiên, mà con người đã
biết vận dụng sức mạnh lao động của thể xác để tự vệ và tranh đấu với
các loại vật sống chung quanh mình. Từ đó, các động tác và các dụng cụ
thô sơ dùng làm khí giới, để chiến đấu của thời khai nguyên đã được chớm
nở. Mặc dù, trong thời tiền sử con người chưa biết dùng chữ viết để ghi
chép lại những biến cố xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, nhưng các nhà
khảo cổ cũng đã tìm hiểu được sự sinh hoạt của nhân loại vào thời xa xưa
qua những di tích còn để lại.
Riêng tại Việt Nam, những di tích thuộc vào thời cựu
thạch (đá đẽo) như các món binh khí: búa, rìu, dao, nạo, dùi, cào,… làm
bằng loại đá đẽo đã được các nhà khảo cổ Việt Nam tìm thấy tại các vùng
đất Thanh hóa, Lạng Sơn, Vĩnh Phú, thuộc miền Bắc Việt Nam. Ở hang
Thượng Phú thuộc miền Trung Việt Nam, nhà khảo cổ M. Colani đã tìm thấy
được những hình ảnh khắc vẽ trên vách đá, giống như một người thợ săn
tay đang cầm cây lao để nhắm hướng lên một con chim đang bay lượn trên
không trung, trong khi ở bên dưới là hình ảnh của những chiếc đầu có
sừng. Ngoài ra, xuyên qua những bức tranh họa trên da thú rừng hoặc được
khắc trên những phiến đá được lưu trữ tại các viện bảo tàng Việt Nam,
chúng ta còn nhận thấy được hình ảnh của những chiếc thạch côn trong
thời đại đá đẽo. Với những di tích vừa kể trên cũng đã nói lên được một
phần nào sự liên quan đến khoa chiến đấu của tổ tiên Việt Nam trong thời
đó.
Đến thời đại trung thạch (đá mài) con người vẫn nhờ
vào võ công của mình để làm phương tiện mưu sinh căn bản cho cá nhân và
gia đình, rồi dần dần với đà tiến bộ biết cách trồng trọt, nuôi , con
người đã tạo được sự bảo đảm về mặt thực phẩm, rồi sự sinh sản gia tăng,
con người mới bắt đầu sống định cư, thành tập đoàn dưới hình thức bộ
lạc. Theo quan điểm của các nhà khảo cổ học đã ghi nhận, đây là thời kỳ
tân thạch, con người bắt đầu biết sống tập đoàn và có chút ít sống văn
minh, tiến bộ lần tới thời đại kim khí.
Theo các sử gia và các nhà khảo cổ học Việt Nam, vào
đời vua Hùng Vương chính là thời đại kim khí cực thịnh, tổ tiên người
Lạc Việt đạt được một sự tiến bộ lớn lao về phương diện kỹ thuật và mỹ
thuật. Tổ tiên Việt Nam đã tìm được các quặng mỏ đồng, sắt, … và biết
cách áp dụng phươngpháp luyện kim (những kỹ thuật pha chế thành hợp kim)
để sản xuất ra các dụng cụ và binh khí sắt bén như: rìu đồng, trống
đồng, đồng côn, thiết côn, dao, búa, cào bằng sắt cho các vị Lạc tướng
và binh sĩ dùng để đánh giặc.
Trong những di tích đào được ở các vùng đất núi Việt
Nam, người ta nhận thấy có những món binh khí bằng kim loại rất là mỹ
thuật như rìu đồng và trống đồng.
Rìu đồng là một dụng cụ để chặt chém, và cũng là một
loại binh khí dùng để đánh giặc. Trên những rìu đồng này, phần lớn đều
được trạm trổ hình kỷ hà, hoặc là những hình ảnh sinh hoạt của con người
thời đó. Những hình vẽ thường là hình ảnh bơi thuyền, nhảy múa, săn bắn
, và những động tác đấu võ.
Trống đồng là một loại nhạc cụ dùng để tạo ra những
âm thanh hòa tấu trong những buổi lễ, đặc biệt trong thời vua Hùng Vương
đã biết dùng trống đồng làm một loại binh khí bằng âm thanh, để khích
động tinh thần tướng sĩ, cũng như ra hiệu lệnh cho binh sĩ trong lúc
đánh nhau. Loại trống đồng này đã được tìm thấy rất nhiều tại các vùng
đất thuộc các tỉnh miền Bắc Việt Nam như Thanh Hóa, Bắc Ninh, Cao Bằng,
Hà Nam, Hà Nội, Hòa Bình, Yên Bái, Hải Dương, Nghệ An… Trên mặt trống
đồng có trạm vẽ hình ảnh và sự sinh hoạt của thời đó rất là đẹp đẽ. Điều
này đã chứng tỏ được tinh thần mỹ thuật của tổ tiên Việt Nam đã bước
tiến rất cao xa.
Một di tích khác mà hiện nay còn lưu lại tại tỉnh
Phúc Yên (Bắc Việt) đó là thành Cổ Loa, với kiến trúc cổ kính đầy tính
cách quân sự, vòng thành xoắn theo hình trôn ốc, với sự bố trí rất thuận
lợi cho việc phòng thủ, chống giặc từ bên ngoài. ây cũng là một di tích
đã nói lên được một khoa võ học quân sự có tổ chức trong triều đại An
Dương Vương (257 – 207 trước CN), với năm mươi năm làm vua, sau khi Thục
Phán đã đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 để đổi tiên nước từ Văn Lang
thành nước Âu Lạc.
II. THỜI KỲ BẮC THUỘC (207 TRƯỚC CN ĐẾN 939 SAU CN)
Sau khi đánh bại được vua An Dương Vương, Triệu Đà là
một vị quan úy ở quận Nam Hải liền sát nhập Nam Hải vào nước Âu Lạc lập
thành một nước tự chủ, đặt tên là Nam Việt, làm vua được năm đời. Đến
năm 111 trước CN, nhà Hán bên Trung Hoa đánh chiếm nước Nam Việt rồi đổi
thành Giao Chỉ Bộ (Giao Châu) đặt quan cai trị như các châu quận của
nước Trung Hoa.
Vào năm 40 sau CN, hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị
người huyện Yên Lăng, tỉnh Phúc Yên, đầu tiên cầm gươm cưỡi bạch tượng,
điều khiển nghĩa quân đánh đuổi quan quân Thái Thú Tô Định, và chiếm
được sáu mươi lăm thành trì, rồi hai bà lên làm vua dành quyền độc lập,
giải phóng nước nhà ra khỏi ách đô hộ của người Trung Hoa được ba năm.
Sự kiện này đã viết lên được một trang võ sử oai hùng cho dân tộc Việt
Nam nói chung, và cho nữ giới Việt Nam nói riêng.
Mãi đến năm 248 sau CN, noi gương hai bà Trưng, bà
Triệu Ẩu, người huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa cỡi bạch tượng mặc áo
giáp vàng, cùng với một ngàn nghĩa quân đứng lên chống với quân Thái Thú
Lục Dận, cầm cự một thời gian ngắn, quân của bà chống cự không lại, bà
đành tự tử.
Đây là một điểm son thứ hai cho nữ giới trong lịch sử Việt Nam.
Năm 542, Lý Bôn, một vị anh hùng dân tộc đã đứng lên
đánh đuổi quân Trung Hoa để làm vua, dựng nên nghiệp nhà Tiền Lý. Đến
năm 602, Lý Phật Tử thuộc hậu Lý Nam Đế vì thế yếu nên xin hàng phục vua
nhà Tùy. Kể từ đó, Giao Châu lại lệ thuộc nước Trung Hoa lần thứ ba.
Mãi cho đến năm 939 sau CN, người Việt mới dành lại được quyền tự chủ.
Vào thế kỷ thứ hai, song song với việc du nhập các
tôn giáo Phật, Khổng, Lão và Việt Nam, ngành võ học từ Ấn Độ và Trung
Hoa cũng được các vị thiền sư, đạo sĩ mang đến qua hai con đường thủy và
đường bộ do hai cách được ghi nhận như sau:
Do các đạo sĩ Trung Hoa sang đất Giao Châu (Bắc Việt
Nam) để lánh nạn vì năm 189 sau CN, sau khi vua Hán Linh đế mất, nước
Trung Hoa có nhiều loạn lạc. Nhân cơ hội này các vị đạo sĩ đã giới thiệu
đạo Khổng và Lão cũng như các phương pháp thể dục dưỡng sinh, thổ nạp
chân khí (tức là cách luyện khí). Trong số đó có ngài Mâu Bác (Meou-Po)
rất tinh thông tam giáo, về sau ngài phát tâm theo Phật giáo.
Do các vị thiền sư Ấn Độ sang đất Giao Châu (Bắc Việt
Nam) để truyền báo đạo Phật, hoặc có một số ghé ngang qua Giao Châu,
trước khi sang Trung Hoa vào thế kỷ thứ ba. Trong số các vị thiền sư Ấn
Độ được ghi nhận như Chí Cương Lương (Tche-Kiang Leang), Khương Tăng Hội
(K’ang Seng Houei), Ma Ha Kỳ Vực (Marjivaka ha La Jivaka)…
Vào năm 247, vua Ngô Tôn Quyền thấy ngài Khương Tăng
Hội thi triển nhiều phép lạ đem lòng tín phục và xây chùa ở thành Kiến
Nghiệp (Nam Kinh bây giờ) để ngài tu trì và giảng dạy Phật học. Trong
sách “Cao Tăng Truyện” có ghi: “Ông Ma Ha Kỳ Vực gốc ở Ấn Độ, đi du lịch
các nước, đến Founan theo đường Giao Châu và Quảng Châu (bắc Việt và
Quảng Đông bây giờ), đến nơi nào ngài cũng làm phép lạ. Khi đến Tương
Dương, ngài muốn qua đò nhưng người lái đò thấy ngài quần áo rách rưới
không cho xuống. Nhưng đến khi đò ngang cập bến, mọi người đều lấy làm
lạ vì thấy ngài đã ở bên này sông rồi.” Vào thời kỳ này, mặc dù võ học
đã được mang đến do các vị thiền sư, đạo sĩ nhưng vẫn chưa được phổ biến
sâu rộng trong dân gian.
Mãi đến năm 580, vị thiền sư Tì Ni a Lưu Chi
(Vinitaruci) từ Tây Trúc đã chính thức mang đến Việt Nam ngành đạo thiền
tông đầu tiên ở nước Việt Nam, tại chùa Pháp Vân (nay thuộc tỉnh Bắc
Ninh), truyền được 19 đời (580 – 1216). Năm 820, vị sư Trung Hoa là ngài
Vô Ngôn Thông đến chùa Kiến Sơ (Bắc Ninh) lập nên thiền phái thứ hai,
truyền được 14 đời (820 – 1221).
Kể từ đó, các môn võ lâm cổ truyền từ Ấn Độ cũng như
các môn Thiếu Lâm Nam và Bắc phái của ngài Bồ Đề Lạt Ma từ Trung Hoa bắt
đầu xuất hiện tại Việt Nam.
III. THỜI KỲ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ (939-1802 SAU CN)
Năm 939, sau khi Ngô Quyền thắng trận Bạch Đằng, đánh
đuổi được quân Nam Hán và giết được Thái Tử Hoằng Thao, Ngô Quyền đã
thật sự giải phóng cho dân Việt khỏi ách ngàn năm đô hộ của người Trung
Hoa, và cũng mở đường cho các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn về
sau được tự chủ ở phương Nam.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp xong loạn 12 sứ
quân, lên ngôi vua đạt lại quốc hiệu là Đại Cồ Việt, ngài lo việc tổ
chức binh bị và chỉ thị cho binh sĩ tập trận đánh Trường Tiên, mà sau
này dân Việt gọi là Trung Bình Tiên hay roi Quang Trường, để áp dụng vào
việc chống giặc, giữ gìn bờ cõi. Về binh đội, ngài phân chia ra làm
Đạo, Quân, Lữ, Tốt, Ngũ. Mỗi Đạo quân có 10 Quân, mỗi Quân có 10 Lữ, mỗi
Lữ có 10 Tốt, mỗi Tốt có 10 Ngũ, mỗi Ngũ có 10 người.
Năm 980, vua Lê Đại Hành nhờ vào việc tổ chức binh bị
hùng mạnh của nhà Đinh để lại mà đã tạo được nhiều chiến công hiển hách
trong việc dẹp nội loạn, cũng như phá được đại quân Tống ở phương Bắc,
bình được Chiêm Thành ở phương Nam. Do đó vua Lê đã tạo được thanh thế
rất lừng lẫy.
Năm 1010, Lý Công Uẩn tiếp nối nghiệp đế của nhà Lê
để sáng lập ra nhà Tiền Lý, truyền ngôi được chín đời. Lý Công Uẩn là vị
vua rất giỏi võ thuật, xuất thân từ cửa thiền ngay từ nhỏ đã theo nhà
sư Lý Khánh Vân làm con nuôi, được học võ lâm và đạo thiền tại chùa Cổ
Pháp. Khi lớn lên nhờ tài văn võ mà được nhà tiền Lê bổ nhiệm chức Quân
Tả Thần Vệ Viện Tiền Chỉ Huy Sứ. Khi lên ngôi, vua Lý Thái Tổ rất trọng
đãi giới tu hành, Phật giáo cũng được chọn làm quốc giáo, song song với
Thiền tông, nhà vua cũng phát động việc huấn luyện môn võ lâm cổ truyền
cho các quan viên, quân sĩ, cũng như các hoàng tử đều phải luyện tập võ
lâm ngay từ thuở nhỏ. Khi lớn lên, các hoàng tử đều giỏi võ lâm và cách
dùng binh. Muốn được phong vương các hoàng tử đều phải đích thân cầm
binh đánh giặc để lập chiến công.
Năm 1054 – 1072, để gia tăng hiệu quả về binh bị, vua
Lý Thánh Tông lo việc định quân hiệu, chia phân quân đội ra làm Tả,
Hữu, Tiền, Hậu. Tất cả là bốn bộ, hợp lại là một trăm đội, mỗi đội đều
có lính kỵ và lính bắn đá còn những phiên binh thì lập ra thành đội
riêng biệt, không cho lẫn lộn với nhau. Binh pháp nhà Lý vào lúc bấy giờ
có tiếng là giỏi, nhà Tống bên Trung Hoa đã phải tìm hiểu thêm. Điều
này cũng làm vẻ vang cho con dân đất Việt.
Năm 1072 – 1127, vua Lý Nhân Tông còn chia võ ban ra
làm chín phẩm. Quan đại thần có Thái Sư, Thái Phó, Thái Úy, Thiều Sư,
Thiếu Phó, Thiếu Úy. Còn phái dưới có Thống, Nguyên Súy, Tổng Quản Khu
mật Sứ, Khu Mật Tả Hữu Sứ, Kim Ngô Thượng Tướng, Đại Tướng,Tướng, Chu vệ
Tướng Quân… . Vào thời này, cũng nên kể đến danh tướng Lý Thường Kiệt,
một võ tướng tài ba thao lược cũng đã lập được nhiều chiến công rực rỡ
trong cuộc dẹp nội loạn, bên ngoài phá Tống bình Chiêm Thành.
Năm 1125 – 1400, tiếp nối nhà Lý các vua nhà Trần chú
trọng đến việc chỉnh đốn quân binh. Vua Trần Thái Tông ra luật tổng
động viên, tất cả những dân trai tráng đều phải đi lính. Ngài cho mở
nhiều “Giảng Võ Đường” để huấn luyện võ lâm cho dân chúng. Nhằm trông
nom binh bị tại triều đình, vua đặt ra các chức: Phiêu Kỵ Thượng Tướng
Quân, Cẩm Vệ Thượng Tướng Quân, Kim Ngô Đại Tướng Quân, Võ vệ Đại Tướng
Quân, Phó ô Tướng Quân,… và ở ngoài, có các chức Kinh Lược Sứ, Phòng Ngự
Sử, Thứ Ngự Sử, Quan Sát Sử, ô Hộ, ô Thống, Tổng Quản,… Binh lính được
chia thành Quân và ô, mỗi Quân có ba chục ô, mỗi ô có tám chục người
được xếp vào Quân và Hộ. Binh lính phải luôn luôn luyện tập võ thuật,
sẵn sàng trong tình trạng chiến đấu. Binh lực của nhà Trần lúc này rất
hùng mạnh, ba quân tướng sĩ rất là thương yêu lẫn nhau. Vì vậy, đã hơn
ba lần thắng được giặc nhà Nguyên, đánh đuổi hơn năm chục vạn quân Mông
Cổ ra khỏi bờ cõi vào năm 1284 – 1288, dưới sự lãnh đạo của Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn, cùng với sự hợp lực của các võ tướng như Trần
Quang Khải, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão đã chiến thắng trận Chương
Dương .Nguyễn Khoái, Phạm Ngũ Lão, Hưng Võ Vương Nguyên, Hưng Hiếu Vương
Úy cùng với Hưng Đạo Vương đã đánh thắng quân Nguyên tại trận Vạn Kiếp,
đến nổi tướng Mông Cổ là Thoát Hoan thua phải bỏ chạy về nước. Trần
Khánh Dư cướp lương thực của quân Nguyên tại trận Vân Đồn. Tại trận Bạch
Đằng, Hưng Đạo Vương đại thắng bắt được Ô Mã Nhi và Trần Nhật Duật đã
phá quân của Toa Đô ở trận Hàm Tử Quan.
Đây là những chiến công rất hiển hách, vẻ vang nhất
trong lịch sử vì với một đế quốc Mông Cổ lớn mạnh nhất vào thời bấy giờ,
có một binh lực viễn chinh hùng mạnh, đã từng làm mưa làm gió tại các
chiến trường lớn trên thế giới, đã chiến thắng thôn tính được nhiều dân
tộc lớn trên thế giới như đã thôn tính được nước Trung Hoa, chiếm được
Tây Bá Lợi Á, xâm lăng Trung Âu, uy hiếp được Áo và Đức… Thế mà khi đến
bờ cõi Việt Nam, họ phải nếm mùi thật trận hơn ba lần. Hơn ba lần chiến
thắng vinh quang của dân tộc Việt đối với kẻ thù số 1 của loài người
trong thời đó, đã chứng tỏ được dân tộc Việt là một dân tộc oanh liệt
đứng hàng đầu trên thế giới.
Trong lúc chống với giặc Mông Cổ, Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn đã soạn ra bộ “Binh Thư Yếu Lược”. Đây là bộ sách tập hợp các
phương pháp dùng binh đánh giặc của những danh gia trên thế giới để
huấn luyện cho quân sĩ.
Năm 1400, sau khi cướp được ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly
lo chỉnh đốn việc binh bị để đề phòng chống với giặc Minh. Hồ Quý Ly bắt
dân kê khai hộ tịch rất cẩn thận rồi tuyển dân vào làm lính để gia tăng
số binh sĩ, và chia quân đội ra làm bộ binh, và thủy binh. Ngoài ra còn
thành lập bốn kho quân trang quân dụng, và tuyển dụng người có kỹ thuật
vào làm việc ở xưởng sản xuất binh khí.
Về thủy binh, để đề phòng giữ mặt sông và biển, Hồ
Quý Ly cho làm ra những chiến thuyền lớn, ở trên có sàng đi, ở dưới cho
người chèo chống, thật là tiện lợi trong việc chiến đấu. Ở các cửa bể và
nơi hiểm yếu của các sông lớn, Hồ Quý Ly cho người lấy gỗ đóng cọc để
đề phòng quân giặc. Việc quân chế ở Nam và bắc được phân chia ra làm
mười hai vệ, Đông và Tây được phân ra làm tám vệ. Mỗi vệ có mười tám
đội, mỗi đội có 18 người. Đại quân có ba chục đội, trung quân có hai
chục đội. Mỗi doanh có mười lăm đội, mỗi đoàn có mười đội. Còn những cẩm
vệ chỉ có 5 đội và một người đại tướng thống lãnh.
Năm 1418, Bình Định Vương Lê Lợi cùng với các nghĩa
sĩ sau nhiều năm gian lao thao luyện đứng lên khởi nghĩa ở đất Lam Sơn.
Mãi đến năm 1427, ngài mới đuổi được quân nhà Minh ra khỏi bờ cõi Việt
Nam.
Năm 1428 Lê Lợi lên ngôi vua, trong các vị có công
lao lớn theo giúp vua, đáng kể nhất về quan văn là ông Nguyễn Trãi trong
việc tham mưu, về quan võ có đại tướng Lê Vấn và nhà sư Sa Viên trong
việc huấn luyện võ dũng cho binh sĩ. Riêng về nhà sư Sa Viên, hiệu là
Sơn Nhân người ở tỉnh Sơn La, Bắc Việt, vào năm 1407 ngài theo quy y học
đạo tại chùa Huyền Thiên, tỉnh Sơn Đông Trung Hoa. Năm 1415, ngài về
nước theo giúp vua Lê Lợi trong việc huấn luyện võ công cho các nghĩa
sĩ.
Đến năm 1428, vua Lê Lợi cho mở ra những kỳ thi “Minh
Kinh Khoa” bắt buộc các quan văn võ, từ tứ phẩm trở xuống phải dự thi,
nghĩa là quan văn phải vào kinh thi sử, quan võ phải thi về võ kinh. Nhà
vua còn mở rộng các khóa thi Minh Kinh cho dân chúng, để kén chọn nhân
tài, ẩn sĩ ra giúp nước. Nhân vào cơ hội phát động võ thuật của vua Lê,
thầy Sa Viên đã thành lập trường huấn luyện võ thuật, đặt tên là “Trường
Võ Bình Định” để tưởng nhớ đến công lao của Bình Định Vương Lê Lợi, đã
có công đánh đuổi quân Minh mang lại thanh bình cho xứ sở.
Năm 1460, vua Lê Thánh Tông cho mở khoa thi Tiến sĩ
đầu tiên. Mỗi ba năm ngài cho mở kỳ thi võ để tưởng thưởng quân sĩ và
kén chọn nhân tài võ dũng. Vào thời bấy giờ, nhiều võ sinh của trường võ
Bình Định đã được trúng tuyển, cho nên danh từ võ phái Bình Định đã
được dân chúng biết nhiều đến kể từ đó. Về binh bị, vua Lê Thánh Tông
còn chỉ thị cho các quan Tổng Binh phải chăm lo giảng tập trận đồ, thao
luyện binh sĩ. Ngài cho đổi lại năm vệ thành năm Phủ: Trung Quân Phủ,
Nam Quân Phủ, Bắc Quân Phủ, Đông Quân Phủ, Tây Quân Phủ. Mỗi phủ có sáu
vệ, mỗi vệ có năm hay sáu sở, mỗi sở có bốn trăm người. Quân sĩ của năm
phủ có khoảng sáu hoặc bảy vạn người. Ngài còn đặt ra ba mươi mốt điều
quân lệnh để tập thủy trận, bốn mươi hai điều để tập bộ trận. Năm 1679,
vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh, ở miền Nam nền võ học Việt Nam còn
chịu ảnh hưởng vào các võ phái của người Trung Hoa như Thiếu Lâm Nam và
Bắc phái, Võ Đang, Nga Mi, Không Động, Bạch Hạc, Bát Quái Chưởng,… xuyên
qua các quan binh của nhà Minh bất phục tùng Thanh Triều đến khai hoang
lập ấp, định cư rãi rác trên các vùng đất cận Nam. Do đó, về sau người
ta còn được nghe nhắc đến những danh từ như Võ Tiều, Võ Hẹ, Võ Quảng, Võ
Hải Nam, Võ Phúc Kiến,… (để chỉ các môn võ do các người Trung Hoa, gốc
thuộc các địa phương khác nhau). Đến đây, chúng tôi xin nhắc lại một
quan điểm chính trị của chúa Nguyễn Hiền Vương, với ý định mở mang bờ
cõi về miền Nam, cho nên chúa Nguyễn đã cho phép các tướng lãnh cùng hơn
ba ngàn binh sĩ nhà Minh bất phục tùng Thanh Triều đến tỵ nạn, và tiện
dịp, dùng họ để khai hoang, lập ấp tại các vùng đất cận Nam, rồi dần dần
xâm chiếm các vùng đất của người Chân Lạp.
Về sau những vùng đất khai hoang, lập ấp này đã tạo
nên những thành phố dân cư trù phú, sự thịnh vượng đáng kể nhất là việc
sản xuất lúa gạo đã tạo nên một nền kinh tế lớn mạnh ở miền Nam. Nền
kinh tế này đã giúp ích rất nhiều cho chúa Nguyễn trong công cuộc thống
nhất sơn hà. Trong các tướng lãnh nhà minh đến khai hoang định cư, đáng
kể nhất là tướng Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Lịch. Vào năm 1679, Trần
Thắng Tài đã khai hoang tại Biên Hòa và dọc theo các vùng đất thuộc đồng
bằng sông Đồng Nai. Còn Dương Ngạn Lịch lập ấp tại Mỹ Tho, và các vùng
đất thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1680, Mạc Cửu định cư tại Hà Tiên
và vùng đất dọc theo vịnh Xiêm La (Thái Lan), Rạch Giá, Cà Mau.
Năm 1706, vào đời vua Lê Dụ Tông, ở miền Bắc chúa
Trịnh Cương cho mở trường huấn võ, đặt quan giáo thụ để dạy cho con cháu
các quan võ về môn võ kinh chiến lược. Cứ mỗi tháng một lần tiểu tập.
Ba tháng một lần đại tập. Mùa xuân và mùa thu thì tập võ. Mùa đông và
mùa hạ thì thập võ kinh (là binh thư chiến lược và chiến thuật, áp dụng
những phương pháp dùng binh đánh giặc). Kể từ đó mà danh từ võ kinh mới
được phổ thông trong quần chúng. Mỗi năm có một kỳ thi võ. Để tham dự
vào kỳ thi võ, thí sinh lần lượt phải qua các bộ môn như bắn cung, múa
giáo, múa gươm, bắn cung trong lúc phi ngựa, và bắn cung trong lúc chạy
bộ. Sau cùng, thí sinh phải qua kỳ thi vấn đáp về nghĩa lý trong sách vỡ
thánh hiền để xét về học lực và những phương lược trong sách võ kinh để
xét về tài năng.
Năm 1740, Trịnh Doanh cho lập võ miếu ở chánh vị có
bàn thờ Vũ Vương, Khương Thái Công, Tôn Võ Tử, Quan Tư,… Ở phía sau có
bàn thờ Trần Hưng Đạo, và lập miếu riêng thờ Quan Công. Mỗi năm vào mùa
xuân và thu, vua cho mở cuộc tế lễ tại võ miếu.
Theo Trung Sơn Võ Đạo Việt Nam
Nhận xét
Đăng nhận xét